Ô nhiễm nước là gì?
Hiến chương Châu Âu về nước đã định nghĩa:
“Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước,
làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, giải trí, cho động vật nuôi
và các loài hoang dã”.
Ô
nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt
đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả
xác chết của chúng.
Ô
nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ
yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vào môi trường nước.
Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước:
ô nhiễm vô cơ, ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi
các tác nhân vật lý.
Nước bị ô nhiễm kim loại nặng như thế nào?
Kim
loại nặng có Hg, Cd, Pb, As, Sb, Cr, Cu, Zn, Mn… thường không tham gia hoặc ít
tham gia và quá trình sinh hóa của các thể sinh vật và thường tích lũy trong cơ
thể chúng. Vì vậy, chúng là các nguyên tố độc hại với sinh vật. Hiện tượng nước
bị nhiễm kim loại nặng thường gặp trong các lưu vực gần các khu công nghiệp,
các thành phố lớn và các khu vực khai thác khoáng sản. Ô nhiễm kim loaii nặng
biểu hiện ở nồng độ cao của các kim loại trong nước. Một số trường hợp xuất
hiện hiện tượng chết hàng loạt các loại cá và thủy sinh vật.
Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm kim loại nặng là quá trình đổ vào môi trường
nước nước thải công nghiệp và nước thải độc hại không qua xử lý hoặc xử lý
không đạt yêu cầu. Ô nhiễm nước bởi kim loại nặng có tác động tiêu cực tới môi
trường sống của sinh vật và con người. Kim loại nặng tích lũy theo chuỗi thức
ăn thâm nhập vào cơ thể người. Nước mặt bị ô nhiễm sẽ lan truyền các chất ô
nhiễm vào nước ngầm, vào đất và các thành phần môi trường có liên quan khác. Để
hạn chế ô nhiễm nước, cần phải tăng cường biện pháp xử lý nước thải công
nghiệp, quản lý tốt vật nuôi trong môi trường có nguy cơ bị ô nhiễm như nuôi
cá, trồng rau bằng nguồn nước thải.
Nước bị ô nhiễm vi sinh vật như thế nào?
Sinh
vật có mặt trong môi trường nước ở nhiều dạng khác nhau. Bên cạnh các sinh vật
có ích thì có nhiều nhóm sinh vật gây bệnh hoặc truyền bệnh cho người và sinh
vật khác. Trong số này, đáng chú ý là các loài vi khuẩn, siêu vi khuẩn và ký
sinh trùng gây bệnh như các loài ký sinh trùng gây bệnh tả, lỵ, thương hàn, sốt
rét, siêu vi khuẩn viêm gan B, siêu vi khuẩn viêm não Nhật Bản, giun đỏ, trứng
giun…
Nguồn gây ô nhiễm sinh học cho môi trường nước chủ yếu là phân rác, nước thải
sinh hoạt, xác chết sinh vật, nước thải bệnh viện… Để đánh giá chất lượng nước
dưới góc độ ô nhiễm sinh học thì người ta sử dụng chỉ số Colifom. Đây là chỉ số
phản ánh số lượng vi khuẩn Colifom có trong nước, thường không gây bệnh cho
người và sinh vật, nhưng để biểu hiện sự ô nhiễm nước bởi tác nhân sinh học. Để
xác định chỉ số Colifom người ta nuôi cấy mẫu trong các dung dịch đặc biệt và
đếm số lượng chúng sau một thời gian nhất định. Ô nhiễm nước được xác định theo
các giá trị tiêu chuẩn môi trường.
Hiện tượng trên thường gặp ở các nước đang phát triển và chậm phát triển trên
thế giới. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1992, nước bị ô nhiễm gây
bênh tiêu chảy làm chết 3 triệu người và 900 triệu người mắc bệnh mỗi năm. Đã
có năm số lượng người mắc bệnh giun đũa lên tới 900 triệu người và bệnh sán
máng là 600 triệu người. Để hạn chế tác động tiêu cực của ô nhiễm sinh vật
nguồn nước mặt, cần nghiên cứu các biện pháp xử lý nước thải, cải thiện tình
trạng vệ sinh môi trường sống của dân cư, tổ chức tốt hoạt động y tế và dịch vụ
công cộng.
Nước bị ô nhiễm do vi sinh vật và thuốc bảo
vệ thực vật
Ô
nhiễm nguồn nước bởi thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học là hiện tượng
phổ biến trong các vùng nông nghiệp thâm canh trên thế giới. Trong quá trình sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, một lượng đáng kể thuốc và phân
không được cây trồng tiếp nhận. Chúng sẽ lan truyền và tích lũy trong đất, nước
và các sản phẩn nông nghiệp dưới dạng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân
bón.
Tác động tiêu cực khác của sự ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật và phân bón là làm
suy giảm chất lượng môi trường khu vực canh tác nông nghiệp như phú dưỡng đất,
nước, ô nhiễm đất, nước, làm giảm tính đa dạng sinh học của khu vực nông thôn,
suy giảm các loại thiên địch, tăng khả năng chống chịu của sâu bệnh đối với
thuốc bảo vệ thực vật.
Nước ngầm ô nhiễm
“Nước
ngầm là một dạng nước dưới đất, tích trữ trong các lớp đất đá trầm tích bở rời
như cặn, sạn, cát bột kết, trong các khe nứt, hang caxtơ dưới bề mặt đất, có
thể khai thác cho các hoạt động sống của con người”.
Nước ngầm là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu ở nhiều quốc gia và vùng dân
cư trên thế giới. Do vậy, ô nhiễm nước ngầm có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
môi trường sống của con người. Các tác nhân gây ô nhiễm và suy thoái nước ngầm
bao gồm:
Các tác nhân tự nhiên như
nhiễm mặn, nhiễm phèn, hàm lượng Fe, Mn và một số kim loại khác.
Các tác nhân nhân tạo như
nồng độ kim loại nặng cao, hàm lượng NO3-, NO2-,
NH4+, PO43-,… vượt quá tiêu chuẩn
cho phép, ô nhiễm bởi vi sinh vật.
Suy thoái trữ lượng nước
ngầm biểu hiện ở giảm công suất khai thác, hạ thấp mực nước ngầm, lún đất.
Ngày nay, tình trạng ô
nhiễm và suy thoái nước ngầm đang phổ biến ở các khu vực đô thị và các thành
phố lớn trên thế giới. Để hạn chế tác động ô nhiễm và suy thoái nước ngầm cần
phải tiến hành đồng bộ các công tác điều tra, thăm dò trữ lượng và chất lượng
nguồn nước ngầm, xử lý nước thải và chống ô nhiễm nguồn nước mặt, quan trắc thường
xuyên trữ lượng và chất lượng nước ngầm.
Những bài viết trước:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét